Bệnh viêm phế quản truyền nhiễm IB trên gà là căn bệnh cấp tính gây ra bởi Coronavirus. Bệnh khiến vật nuôi bị rối loạn hô hấp nghiêm trọng, giảm sản lượng, giảm chất lượng trứng và cả viêm thận. Virus còn có khả năng biến chủng cực cao, chưa kể mỗi vùng còn xuất hiện chủng virus khác biệt. Thời điểm giao mùa là thời kỳ nhiều đàn gà ở khắp nơi mắc bệnh IB với tốc độ lây lan cực nhanh. Do đó chủ nuôi cần nắm rõ về bệnh để phòng ngừa hiệu quả hơn, tránh các thiệt hại về kinh tế.
Mục Lục
Nguyên nhân gây bệnh viêm phế quản truyền nhiễm
IB là bệnh truyền nhiễm cấp tính, do Coronavirus gây ra, vi-rút này có nhiều týp huyết thanh khác nhau. Bệnh gây rối loạn hô hấp nghiêm trọng, viêm thận và giảm sản lượng cũng như chất lượng trứng. Bệnh thường xảy ra khi gà bị lạnh, chăm sóc nuôi dưỡng kém, bệnh lây trực tiếp từ gà bệnh sang gà khỏe hoặc từ trại này sang trại khác qua đường hô hấp, tiêu hóa, phân, dụng cụ chăn nuôi đã nhiễm mầm bệnh. Gà mọi lứa tuổi đều mắc bệnh nhưng bệnh thường nặng hơn trên gà con.
Sơ lược về virus gây bệnh IB trên gà
Virus gây bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm (Infectious bronchitis: IB) thuộc họ coronavirus, chi coronaviraidae là một ARN virus sợi đơn. IBv là một coronavirus gamma. Bệnh IB do một virus corona gây ra với các kháng nguyên đa dạng. Vì thế, có rất nhiều chủng được xác định như: Massachusetts, Arkansas 99, Connecticut, O72,… bệnh có thể có những triệu trứng và bệnh tích khác nhau giữa các chủng. Virus có khả năng biến chủng rất cao vì vậy đây là bệnh đang rất được quan tâm trên toàn thế giới.
Virus tồn tại lên đến 1 năm trong phân và chất độn chuồng, tồn tại 4 tuần trong chuồng nuôi. Virus bất hoạt sau 15 phút ở 56°C và sau 90 phút ở 45°C. Trong môi trường kiềm 1% virus tồn tại trong vòng 3 phút. Virus nhạy cảm với hầu hết các chất khử trùng thông thường.
Virus viêm phế quản truyền nhiễm (IBV) có mặt trên toàn thế giới. Gà là vật chủ tự nhiên quan trọng nhất của IBv, mọi lứa tuổi gà có thể bị nhiễm. IBv cũng được phân lập từ các loài khác như chim bồ câu, vịt, le le, công, ngỗng, thiên nga . . . Một số chủng được tìm thấy trên toàn thế giới, nhưng một số chủng chỉ lưu hành trên một vùng địa lý nhất định.
Triệu chứng khi gà mắc bệnh IB
Thời gian nung bệnh từ 18-36 giờ, tùy theo độc lực vi-rút và đường xâm nhập:
Bệnh trên đường hô hấp: xảy ra trên gà mọi lứa tuổi, với các triệu chứng ho, thở hổn hển, âm ran, hắt hơi, chảy nước mũi, chảy nước mắt và sưng mặt cùng với các triệu chứng chung như sốt, uể oải và gom tụ chồng lên nhau xung quanh nguồn nhiệt, giảm ăn và giảm uống… Bệnh lây lan rất nhanh trong đàn, tỷ lệ mắc bệnh có thể lên đến 100%, trên gà con mới nở tỷ lệ chết có thể lên đến 30%, đặc biệt là những đàn không có kháng thể mẹ truyền. Trên những gà lớn hơn 6 tuần tuổi thì triệu chứng nhẹ hơn và thường không xuất dịch ở mũi.
Bệnh trên cơ quan sinh sản: giảm sản lượng trứng và chất lượng trứng trên gà đẻ, đôi khi đi kèm với các triệu chứng hô hấp. Sản lượng trứng giảm lên đến trên 50%, trứng méo mó dị hình, vỏ mỏng hoặc nhăn gợn sóng, nhạt màu. Lòng trắng trứng mất tính nhớt, lòng đỏ trôi nổi tự do. Nếu gà bị nhiễm bệnh từ lúc còn rất nhỏ thì ống dẫn trứng sẽ bị ảnh hưởng và nó phát triển không bình thường. Thể viêm thận cũng có thể thấy trên gà đẻ.
Thể viêm thận: thường thấy ở gà giò (từ 3-6 tuần tuổi): suy nhược, xù lông, uống nhiều nước, tiêu chảy phân trắng có nhiều nước có thể đi kèm với triệu chứng hô hấp.
Bệnh tích viêm phế quản truyền nhiễm trên gà
- Trên cơ quan hô hấp. Khí quản và phổi có nhiều chất nhày, túi khí viêm dày đục, có thể xung huyết ở phổi.
- Trên cơ quan sinh sản. Ống dẫn trứng phát triển không hoàn toàn hoặc không phát triển. Trong trường hợp gà bị nhiễm bệnh từ nhỏ đến khi gà trưởng thành, trứng rụng vào xoang bụng.
- Thận viêm, sưng, ống thận chứa đầy urate, viêm thận kẻ.
Cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh đường hô hấp khác. Chẩn đoán dựa vào triệu chứng và bệnh tích như bệnh lây lan rất nhanh, với các triệu chứng hô hấp, năng suất và chất lượng trứng giảm. Để chẩn đoán chính xác bệnh cần phải sử dụng các xét nghiệm phòng thí nghiệm như phản ứng ELISA, phản ứng ngăn trở ngưng kết hồng cầu (HI), trung hòa vi-rút, phản ứng RT PCR, phân lập vi-rút với các mẫu bệnh phẩm: huyết thanh, phế quản, phổi, chất tiết đường hô hấp, thận, ống dẫn trứng.
Phòng trị bệnh IB cho đàn gà
Đây là bệnh do vi-rút, chưa có thuốc đặc trị do đó phòng bệnh là chủ yếu. Có thể dùng kháng sinh để tránh phụ nhiễm. Cung cấp các chất điện giải trong trường hợp gà bệnh thể viêm thận. Cần áp dụng các biện pháp vệ sinh, sát trùng một cách nghiêm ngặt chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi, lò ấp trứng… Bằng các chế phẩm như Navetkon-S, dung dịch Benkocid chuồng trại, BKA chuồng trại…
Gà giống phải được mua từ các cơ sở không mắc bệnh, phải được cách ly theo dõi ít nhất 1 tuần. Xử lý tốt xác chết, phân và chất độn chuồng. Nên loại thải gà đẻ bị mắc bệnh. Quản lý chăm sóc đàn tốt, chuồng trại thông thoáng. Nhiệt độ, ẩm độ thích hợp. Vệ sinh thức ăn, nước uống và dụng cụ chăn nuôi sạch sẽ tránh nhiễm bẩn. Sử dụng các chế phẩm phòng chống stress cho gà nhất là lúc giao mùa, chuyển chuồng, tiêm phòng… Như VITA-ELECTROLYTES, NAVET-VITAMIN C…
Phòng bệnh bằng vắcxin được xem là biện pháp chủ yếu. Có 2 loại vắcxin: vắcxin vô hoạt thường dùng cho gà đẻ với đường tiêm bắp thịt (thịt ức) hoặc dưới da vùng cổ. Vắcxin sống nhược độc dùng cho gà con, gà giò bằng đường nhỏ mắt, nhỏ mũi, khí dung, cho uống.