Bệnh sữa và đỏ thân thường xuất hiện ở ở mọi kích cỡ tôm hùm nuôi. Vì vậy kể cả tôm thương phẩm hay tôm con đều có thể mắc bệnh này. Nhưng đa phần giai đoạn tôm con là dễ mắc bệnh nhất. Tôm bị bệnh sẽ xuất hiện những đốm đỏ ở vùng giáp đầu ngực hay vùng bụng. Sau đó nếu không được phát hiện và điều trị sớm, tình trạng này sẽ lan dần ra toàn bộ cơ thể tôm. Từ đó khiến cho mô gan tụy bị hoại tử, gây ra những thiệt hại nặng nề ở các mô hình nuôi tôm hùm. Chính vì vậy những mô hình nuôi tôm hùm giúp phòng trị bệnh sữa và đỏ thân luôn được nhiều hộ chăn thủy sản quan tâm.
Mục Lục
Mô hình nuôi tôm hùm phòng trị bệnh
(TSVN) – Dự án “Xây dựng mô hình nuôi tôm hùm nhằm phòng trị bệnh sữa và đỏ thân khi nuôi lồng hiệu quả” do ThS. Võ Thị Ngọc Trâm – Phó Giám đốc Trung tâm Quan trắc môi trường và bệnh thủy sản miền Trung (thuộc Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III) làm chủ nhiệm. Hiện sau hơn 3 năm triển khai đã cho thấy hiệu quả.
Tôm hùm nuôi lồng có hiệu quả kinh tế cao
Theo ThS. Võ Thị Ngọc Trâm, tôm hùm nuôi lồng là một trong những đối tượng nuôi chính tại các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ. Vì có giá trị cao, mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể cho người dân ven biển. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh số lượng lồng bè nuôi, diễn biến thời tiết bất lợi. Bệnh trên tôm hùm nuôi lồng thường xuyên xảy ra đã ảnh hưởng đến hiệu quả nuôi tôm hùm lồng. Trong đó, đối với bệnh sữa và đỏ thân, việc chữa trị của người nuôi chưa hiệu quả. Vì vậy làm ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi. Trong khi hai bệnh này đã xây dựng được giải pháp kỹ thuật điều trị và công bố rộng rãi.
Vì vậy, dự án trên là giải pháp bảo đảm xây dựng các vùng nuôi tôm hùm lồng theo hướng bền vững. Nhằm khống chế được dịch bệnh, tạo ra sản phẩm vệ sinh an toàn thực phẩm. Qua đó giảm thiểu tác hại đến môi trường, phục vụ tiêu thụ nội địa và xuất khẩu để nâng cao thu nhập cho người dân. Nhằm góp phần phát triển kinh tế biển, bảo đảm an sinh xã hội.
Cơ hội mới cho nghề nuôi tôm hùm
Sau thời gian nuôi 10 – 12 tháng, tôm hùm xanh có thể đạt cỡ 350 gram/con. Sau 16 – 18 tháng nuôi tôm hùm bông có thể đạt 700 gram/con. Tỉ lệ sống đạt khoảng 75%. Tôm có màu sắc đẹp, năng suất có thể đạt 4-5 kg/m3. Ngoài ra, việc nuôi tôm trong bể giúp người dân có thể chủ động được thời gian nuôi. Cũng như thời điểm bán, năng suất, thay vì hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên.
Kết quả nghiệm thu các mô hình
Trong hơn 3 năm triển khai, dự án đã thực hiện thành công 9 mô hình trình diễn tại 4 vùng nuôi tôm hùm lồng tập trung thuộc 3 tỉnh: Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa. Các mô hình của dự án được áp dụng theo tiến bộ kỹ thuật “Giải pháp kỹ thuật điều trị bệnh sữa và bệnh đỏ thân trên tôm hùm nuôi lồng”. Mã hiệu TBKT 03-02:2017/BNNPTNT do PGS, TS Võ Văn Nha – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III là tác giả công trình, đã được Tổng cục Thủy sản công nhận.
Kết quả nghiệm thu các mô hình cho thấy, tôm hùm bông đạt khối lượng trung bình hơn 800g/con. Tỷ lệ sống đạt 87,8 – 93,5%. Tôm hùm xanh đạt khối lượng trung bình hơn 400g/con. Tỷ lệ sống đạt 90,0 – 92,1%. Kết quả của mô hình hoàn toàn kiểm soát được tình trạng tôm hùm chết số lượng lớn do bệnh sữa/đỏ thân ở các lồng nuôi. Từ đó ngăn chặn lây lan bệnh sữa, đỏ thân đến các lồng nuôi/hộ nuôi lân cận. Nhằm giảm thiểu dịch bệnh xảy ra ở vùng nuôi.
Điều trị bệnh sữa và bệnh đỏ thân trên tôm hùm nuôi
Dự án đã tổ chức 18 lớp tập huấn kỹ thuật dành cho những người tham gia và không tham gia mô hình. 9 hội thảo tổng kết và 9 hội thảo đầu bờ tại các địa phương thực hiện mô hình. Với hơn 800 đại biểu và người nuôi tôm hùm tại các địa phương tham dự. Từ đó, tuyên truyền đến người dân giải pháp kỹ thuật điều trị bệnh sữa và bệnh đỏ thân trên tôm hùm nuôi lồng áp dụng tại mô hình. Đồng thời, tuyên truyền nâng cao ý thức bảo vệ môi trường biển trong cộng đồng người nuôi tôm hùm tại địa phương.
PGS, TS Nguyễn Hữu Ninh – Chủ tịch Hội đồng nghiệm thu cấp bộ nhận định: Tôm hùm nuôi tại các mô hình có tỷ lệ khỏi bệnh sữa lớn hơn 90%, tỷ lệ khỏi bệnh đỏ thân hơn 80%. Bệnh sữa, bệnh đỏ thân xuất hiện dưới 30%/vụ nuôi; tỷ lệ sống hơn 85%. Cỡ thu hoạch tôm hùm xanh hơn 400 g/con, tôm hùm bông hơn 800g/con. Mô hình được quản lý khoa học, việc sử dụng kháng sinh có kiểm soát. Nhằm tránh tình trạng kháng kháng sinh xảy ra ở nhiều vùng nuôi trồng thủy sản hiện nay.