Loại virus mới gây bệnh ở tôm có tên viết tắt là SHIV (Shirmp hemocyte iridescent virus), nó còn được biết đến với tên Decapod iridescent virus 1 (Div1), thuộc họ Iridoviridae. Virus này gây ra bệnh rất nguy hiểm với tỷ lệ chết cao cho tôm thẻ chân trắng và được phát hiện đầu tiên ở Chiết Giang, Trung Quốc từ năm 2014. Những năm trở lại đây bệnh này xuất hiện và gây thiệt hại rất lớn cho tôm nuôi ở rất nhiều nước. Cho đến nay, nhiều loài tôm mới cũng đã được phát hiện mang mầm bệnh này như tôm bạc, tôm càng xanh…
Mục Lục
Nguồn gốc của bệnh SHIV
SHIV thuộc họ Iridoviridae. Iridoviridae là một họ các virus có đường kính trong khoảng 120 – 300 nm, thậm chí có thể lên đến 350 nm (ví dụ như chi Lymphocystivirus). Nhân virus chứa DNA mạch đôi dsDNA với kích thước phân tử 140 – 303 kbp bao gồm các trình tự DNA mã hóa cho gen và những trình tự khác. Quan sát qua kính hiển vi điện tử cho thấy, virus có hình đa diện đặc trưng với đường kính trung bình 158,6 + 12,5 nm (n=30) và 143,6 + 10,8 nm (n=30) và kích thước nhân là 85,6 + 6 nm (n=30). Phân tích cây di truyền của trình tự protein cấu tạo nên vỏ của virus (MCP) và ATPase. Cho thấy virus này là một loài mới mà không thuộc 5 nhóm đã biết của họ Iridoviridae.

Vi rút DIV1 lây nhiễm cho tôm ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng (Postlarvae, tôm nhỡ và tôm trưởng thành) và đã được phát hiện gây bệnh trên các loài tôm như tôm trắng Thái Bình Dương, tôm sông và tôm đồng. Đến nay, đã phát hiện một số loài tôm cảm nhiễm vi rút DIV1. Bao gồm: tôm hùm nước ngọt (Cherax quadricarinatus), tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei), tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii); tôm hùm nước ngọt (Procambarus clarkia), tôm càng nước ngọt (Macrobrachium nipponense) và tôm gai (Exopalaemon canrinicauda). Hai loài cua, gồm cua lông Hồng Kông (Eriocheir sinensis) và cua biển vằn (Pachygrapsus crasssipes) cũng bị nhiễm vi rút qua thử nghiệm (tiêm vi rút vào cơ) nhưng chưa được xác nhận là loài cảm nhiễm với vi rút.
Các dấu hiệu nhận biết bệnh
Tôm thẻ chân trắng bị bệnh SHIV thường có các biểu hiện khối gan; tụy nhạt màu cả bề mặt lẫn mặt cắt, dạ dày và ruột không có thức ăn; mềm vỏ và 1/3 số tôm bệnh được ghi nhận là thân chuyển sang màu đỏ nhạt. Với tôm càng xanh, triệu chứng chính được ghi nhận gan tụy chuyển sang màu trắng vàng nên bệnh còn được gọi là bệnh “trắng đầu”. Tỷ lệ chết cộng dồn trên 80% với tôm nhiễm bệnh.

Do vậy, các nhà khoa học và chuyên gia bệnh tôm đánh giá đây là nguy cơ hiện hữu không chỉ cho ngành tôm Trung Quốc mà còn là mối nguy tiềm tàng cho ngành tôm trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Mặt khác, Việt Nam và Trung Quốc có nhiều giao dịch liên quan đến thủy sản và sản phẩm thủy sản, nên nguy cơ lây lan dịch bệnh là rất cao.
Biện pháp nhằm kiểm soát bệnh SHIV
Đặc biệt, nguồn gốc và phương thức lan truyền dịch bệnh của SHIV còn chưa rõ ràng; và hiện nay vẫn chưa có biện pháp phòng trị hiệu quả dịch bệnh này. Do vậy ngoài sự vào cuộc của các cơ quan chức năng; người nuôi cũng phải luôn ý thức và nâng cao cảnh giác; đảm bảo an toàn sinh học trong trại nuôi.
Cần quản lý chất lượng con giống, kiểm tra và đảm bảo con giống không nhiễm bệnh trước khi đưa vào trại nuôi. Để đảm bảo mẫu tôm không nhiễm SHIV và các mầm bệnh nguy hiểm khác. Người nuôi có thể gửi mẫu đến các phòng thí nghiệm để xét nghiệm; hiện nay bệnh SHIV có thể xét nghiệm bằng phương pháp Nested PCR hoặc qPCR.
Trong quá trình nuôi cần quan sát tập tính và màu sắc của tôm để kịp thời phát hiện. Kiểm soát nguồn nước và nguồn thức ăn, đặc biệt là thức ăn tươi sống như giun nhiều tơ. Xây dựng vành đai an toàn sinh học trại nuôi; để hạn chế mầm bệnh xâm nhập từ môi trường bên ngoài. Không cho người lạ vào trại nuôi, tiến hành khử trùng định kỳ. Theo dõi sát diễn biến của bệnh; thông tin từ cơ quan quản lý để có biện pháp ứng phó kịp thời.
Tìm hiểu thêm các thông tin thú vị về thú y nhé!