Gà Hồ có nguồn gốc xuất xứ của gà Hồ từ làng Lạc Thổ, thị trấn Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh nước ta. Có thể bạn chưa biết, sự hình thành và phát triển gà Hồ gắn liền với tập quán cổ truyền, với nền văn hiến lâu đời ở vùng quê Kinh Bắc cổ kính. Đặc biệt, đây cũng là nơi sản xuất ra tranh Đông Hồ, đã đi vào lịch sử và được dân gian lưu truyền cho đến ngày nay.
Hiện nay, gà Hồ cũng được nuôi phổ biến ở một số huyện thuộc tỉnh Bắc Ninh cũ và một số vùng lân cận ở miền Bắc. Chính vì thế, gà Hồ được biết là một giống gà đặc sản ở tỉnh Bắc Ninh và hiện đang có giá trị kinh tế cao “ngang ngửa” gà Đông Tảo”. Giống gà này cho thịt thơm ngon, bên cạnh đó, sức chống chịu với ngoại cảnh tốt. Và để có thể nuôi giống gà này thu về lợi nhuận cao, mời bà con hãy tham khảo kỹ thuật nuôi gà Hồ được gtereads.com chia sẻ sau đây nhé.
Mục Lục
Những đặc điểm cơ bản của gà Hồ
Ngoại hình
Gà trống có hai màu lông chính là màu đen ánh xanh (mã lĩnh) và màu đỏ đậm (giống màu quả mận chín, mã mận). Một con gà trống được xác định là màu mã lĩnh hay màu mã mận khi trên thân gà màu lông nào chiếm đến 2/3 thì gọi màu đấy. Gà mái có ba màu lông là màu đất sét (mã thó), màu lông chim sẻ (mã sẻ) và màu vỏ quả nhãn khô (mã nhãn). Gà Hồ có đầu giống hình đầu con công hay còn gọi là “đầu công”. Mào gà gọn giống hình múi chanh úp ngược hoặc hình quả dâu trên đầu, có màu đỏ. Còn đuôi gà thường xòe to như cái nơm, các lông đuôi bằng nhau. Mỗi khi những chú gà trống cất tiếng gáy, người ta dễ nhìn thấy cái đuôi nơm ấy.
Cánh gà úp vào thân giống như hai vỏ chai úp vào thân gọi là cánh úp vỏ chai. Chân gà Hồ thường to, cao, tròn (quản), có 3 hàng vẩy, vẩy chân mịn màu vỏ đỗ nành. Gà trống có dáng cao, to và trường thân, lưng vuông, ngực nở rộng, trọng lượng của một chú gà trống nuôi làm giống có khi lên đến 6 – 7 kg. Trọng lượng của gà mái tối đa từ 4–5 kg.
Đặc tính sinh sản
Do trọng lượng lớn, chậm chạp nên việc ấp trứng, nuôi con của gà mái rất vụng. Cũng vì thế mà trứng ấp không nở hết. Số lượng gà con trong từng đàn cũng ít hơn nhiều so với gà ri. Cũng theo ông Chung, gà Hồ và gà Đông Cảo của vùng Văn Giang, tỉnh Hưng Yên cũng có những điểm khác nhau về hình dáng. So với gà Hồ thì gà Đông Cảo dáng thấp hơn, chân to hơn, trọng lượng tối đa của một chú gà Đông Cảo cũng nhẹ hơn, chỉ đến khoảng 4,5 kg.
Kỹ thuật nuôi gà Hồ
Chuẩn bị chuồng nuôi gà Hồ
Chọn nơi cao ráo, thoáng mát, xa khu dân cư, tránh khu vực ô nhiễm môi trường để nuôi gà Hồ. Nếu nuôi theo phương pháp công nghiệp, bà con đóng các ô chuồng với diện tích 2 – 3m2, rải thêm trấu khô, dăm bào hoặc rơm, cỏ khô sạch cắt ngắn dày khoảng ≥ 5cm để làm đệm. Hoặc đóng khung bằng tre, gỗ, nứa hay sắt cách nền tầm 40 – 70 cm cho phân rơi xuống đất.
Nếu nuôi bán chăn thả thì thiết kế mặt trước của chuồng hướng về hướng Đông Nam. Để gà đón ánh nắng vào buổi sáng và chuồng trại được khô thoáng. Sàn chuồng làm tương tự như trên. Xung quanh chuồng căng rào sao cho có các lỗ thưa. Qua đó để đảm bảo độ thoáng gió. Những ngày nắng ráo, để gà đi lại tự do trong sân vườn hoặc bãi thả. Tối mới dồn vào chuồng. Tốt nhất là nên xây dựng từ 2-4 bãi thả để luân phiên. Mật độ gà trong bãi thả khoảng 1-5m2/ con.
Máng ăn cho gà Hồ
Gà con từ 15 ngày tuổi trở nên bà con có thể cho ăn bằng máng treo. Nên treo máng ở độ cao phù hợp để tránh gà nhảy vào máng ăn. Với gà ít ngày tuổi hơn, bà con bố trí cách cho ăn sao cho phù hợp. Gà 1-3 ngày tuổi, rải thức ăn trên giấy lót trong lồng úm. Cho gà 4-14 ngày tuổi ăn bằng khay hoặc máng. Với gà nuôi thả hoặc bán thả, bà con đặt thêm một số máng cát sỏi nhỏ. Qua đó giúp cho gà dễ tiêu hóa thức ăn. Bên cạnh đó là cung cấp thêm cho chúng một lượng chất khoáng nhất định. Hoặc nuôi gà chăn thả hoàn toàn thì bà con không cần máng ăn cũng được.
Cách chăm sóc gà con
Khi gà mới nhập về (1 ngày tuổi) bổ sung nước uống, đường Glucose, Permasol 500, Vitamin C như sau: – 50g đường Gluco, 1g Permasol, 1g Vitamin C hòa với 1 lít nước cho gà uống để tăng sức đề kháng, nếu sức đề kháng kém khả năng chống chịu bệnh tật kém, sau 2 giờ thu máng uống, rửa sạch. Sau 2 – 3 giờ đổ thức ăn cho gà con chú ý nên chọn loại cám được chế biến với khả năng tiêu hóa thức ăn của gà con lúc này, không nên đổ thức ăn dày quá bởi vì gà con vừa ăn vừa bới.
Khi 7 ngày tuổi nhỏ chủng đậu và nhỏ Lasota cho gà. 14 ngày tuổi trộn kháng sinh Neomycin 1g/1kg thức ăn. 21 ngày tuổi hết sức chú ý các yếu tố như: Nhiệt độ, môi trường, thức ăn ảnh hưởng đến sự phát triển của đàn gà, chất lượng đàn gà, mọi vận dụng như máng ăn, máng uống phải giữ gìn vệ sinh, rửa sạch khi cho thức ăn mới, lượng thức ăn vừa đủ, tránh để thức ăn lâu ôi thiu kém chất lượng. 24 ngày tuổi nhỏ Lasota lần 2 để đàn gà phát triển mạnh. 1 ngày cho ăn từ 3 – 4 lần. Thức ăn đảo đều. Độ dày thức ăn vào máng 0,5 – 1 cm.
Thức ăn cho gà Hồ theo từng giai đoạn
Khi gà còn bé, bà con cho gà ăn loại cám phù hợp với độ tuổi của gà. Chú ý không đổ thức ăn quá dày, gà con sẽ vừa ăn vừa xới. Về sau, khi gà đã lớn, nếu nuôi theo hình thức công nghiệp, bà con cho ăn cám công nghiệp phù hợp độ tuổi. Thỉnh thoảng cho ăn kết hợp rau cỏ để bổ sung vitamin và giúp gà dễ tiêu hóa. Đối với gà nuôi kiểu chăn thả, thức ăn chủ yếu là thóc, ngô, cám gạo, bèo và rau xanh.
Một số bệnh có thể gặp ở gà Hồ
Bệnh hô hấp mãn tính (CRD)
Do Mycoplasma gallisepticum (MG) gây ra. Bệnh lây lan chủ yếu qua trứng, đường hô hấp và tiêu hóa. Gà mái đẻ bị nhiễm bệnh có thể truyền mầm bệnh cho gà con qua trứng hoặc do gà khỏe tiếp xúc trực tiếp với gà nhiễm bệnh và mang mầm bệnh hay gián tiếp qua thức ăn, nước uống, xe cộ, người qua lại…
Bệnh dịch tả (Newcastle)
Gây ra bởi virus Paramyxovirus serotype 1. Bệnh Newcastle còn được gọi là dịch tả hay bệnh rù. Là bệnh thường gặp nhất ở gà, cút, bồ câu gây tổn thất lớn trong chăn nuôi gia cầm. Bệnh lây lan qua đường hô hấp và tiêu hóa do tiếp xúc trực tiếp với gà bệnh, phân hay người, chuột, dụng cụ, xe cộ, gió thổi làm virus từ nơi này lây sang nơi khác và đặc biệt lây do chim trời. Thời gian ủ bệnh từ 5-7 ngày có khi đến vài tuần trong điều kiện tự nhiên.
Phát hiện bệnh tả: Gà nhiễm bệnh có thể chết nhanh trong vòng 3-4 ngày với triệu trứng: Suy sụp, bỏ ăn, xù lông, gục đầu, thở khó khăn, ho, lờ đờ, phân lỏng màu xanh đôi khi lẫn máu, mào tím, mặt sưng… Giai đoạn sau, gà bệnh đầu ngoẹo, cổ còng, quay vòng tròn, liệt chân, cánh. Đối với gà đẻ, thì sản lượng trứng giảm, trứng non nhiều, màu trắng nhợt.
Bệnh viêm phế quản truyền nhiễm (Infectious Bronchitis-IB)
Gây ra bởi virus họ Coronaviridae. Bệnh lây qua đường hô hấp và tiêu hóa do tiếp xúc với gà bệnh, hít thở không khí nhiễm mầm bệnh thổi từ chuồng này sang chuồng khác hoặc do xe cộ, người, chó, chuột mang mầm bệnh từ nơi này sang nơi khác. Bệnh xảy ra trên gà ở các lứa tuổi, nhưng nặng nhất là gà con.
Phát hiện bệnh: Thời gian ủ bệnh từ 18-36 giờ; Gà hắt hơi, thở khò khè, kém ăn, chậm lớn, lông cánh xơ xác. Ở gà con: Ho, thở hổn hển, chảy nước mũi, sốt, uể oải, gà yếu, tiêu chảy phân trắng, ăn ít, thường chụm lại thành từng bầy quanh đèn sưởi. Tỷ lệ mắc bệnh có thể lên đến 100% và tỷ lệ chết là khoảng 30%. Ở gà đẻ trứng: Có những triệu chứng hô hấp trên, giảm đẻ và chất lượng trứng giảm thấp (lòng trắng loãng), trứng bị méo mó.